BS Nguyễn Ngọc Hiền - 11/19
1. Mở đầu
Trường hợp bệnh giun đũa chó, mèo ở người được Wilder mô tả lần đầu năm 1950 khi phát hiện ấu trùng của giun tròn trong u hạt võng mạc (retinal granuloma). Sau đó Beaver và cs. (1952) lần đầu tiên dùng từ “ấu trùng di chuyển nội tạng” (visceral larva migrans) để báo cáo một loạt ca bệnh trẻ em có bạch cầu ái toan tăng cao trong máu đi kèm với bệnh nặng và kéo dài ở nhiều cơ quan, và khi làm sinh thiết phát hiện ấu trùng của Toxocara canis hay Toxocara cati. Trong nhiều năm bệnh giun đũa chó, mèo ở người được xem là bệnh ít gặp ở trẻ em, nhưng với những tiến bộ trong huyết thanh chẩn đoán những năm gần đây người ta thấy tỷ lệ người có phản ứng dương tính với kháng nguyên ngoại tiết của Toxocara sp. không phải là thấp, kể cả ở trẻ em lẫn người lớn và một số tác giả còn cho rằng đây là một bệnh giun sán phổ biến nhất ở các nước phát triển.
2. Tác nhân gây bệnh
Tác nhân gây bệnh là Toxocara canis hay Toxocara cati, một loài giun tròn thường được gọi là giun đũa của chó, mèo. Các giun này sẽ đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài môi trường và sau 1-2 tuần lễ các trứng này sẽ hoá phôi. Đây là giai đoạn có thể gây bệnh cho người nếu nuốt phải trứng đã hóa phôi. Trẻ em là đối tượng dễ nhiễm bệnh nhất do thói quen đùa nghịch với đất cát, mà đất cát lại là nơi phát tán trứng giun do đặc tính phóng uế bừa bãi của chó, mèo. Sau khi nuốt trứng vào cơ thể, các ấu trùng giun sẽ được phóng thích, đi xuyên qua thành ruột và theo đường máu di chuyển đến gan, phổi, hệ thần kinh trung ương. Tại đây, các ấu trùng có thể sống sót trong cơ thể người trong nhiều tháng và sau đó bị phản ứng viêm của cơ thể tiêu diệt các ấu trùng di chuyển hoặc khiến chúng ngưng phát triển.
3. Dịch tễ
Tình hình bệnh tại Việt Nam:
Bệnh giun đũa chó, mèo tại Việt Nam chưa được nghiên cứu nhiều, một phần vì các triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu, một phần vì việc xét nghiệm phân không áp dụng được trong bệnh này vì giun không phát triển được đến giai đoạn trưởng thành và đẻ trứng trong ruột của người. Những năm gần đây đã có nhiều điều tra về huyết thanh học, chủ yếu với kỹ thuật ELISA nhưng chỉ giới hạn ở một số địa điểm cụ thể và số mẫu chưa nhiều nên các số liệu khó nói lên tình hình nhiễm chung trong cả nước. Ngoài ra XN Toxocara (+) chỉ cho thấy BN có kháng thể (+), đã từng nhiễm ấu trùng sán chó, không chắc là hiện tại có nhiễm.
Tuy chưa có số liệu chính xác về tình hình bệnh, nhưng cơ hội lây nhiễm trứng giun đũa chó, mèo vào người tại Việt Nam là rất cao, do việc nuôi chó, mèo trong nhà là phổ biến (để giữ nhà, làm thú cảnh, nguồn thực phẩm…). Ngoài ra một khảo sát trên 90 mẫu rau sống bán tại các siêu thị trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, số mẫu rau nhiễm trứng giun đũa chó, mèo chiếm đến 67,7% .
Ở ký chủ vĩnh viễn (chó hay mèo nhà), giun trưởng thành sống trong lòng ruột non.
Người mắc bệnh khi nuốt phải trứng giun đũa chó, mèo đã hoá phôi (ấu trùng). Nhưng các ấu trùng sẽ không phát triển được đến giai đoạn trưởng thành và sẽ chu du trong cơ thể người trong vài tháng đến nhiều năm. Các ấu trùng này sẽ đóng kén tại những nơi mà chúng đến, làm nên bệnh giun đũa chó, mèo ở người.
4. Điều trị
A- Ở CHÓ, MÈO:
Phác đồ điều trị bệnh giun đũa chó, mèo hiện nay chưa thống nhất về thuốc tối ưu, cũng như liều lượng và thời gian điều trị. Nhìn chung albendazole được nhiều tác giả khuyến cáo do tính an toàn, có sẵn và ít phản ứng bất lợi. Thời gian dùng albendazole cũng rất thay đổi tuỳ theo tác giả.
B- Ở NGƯỜI:
Như đã biết các ấu trùng từ trứng nở ra sẽ không phát triển được đến giai đoạn trưởng thành và sẽ chu du trong cơ thể người trong vài tháng đến nhiều năm. Nó sẽ tạo ra kháng thể ở người. Tuy nhiên sự hiện diện của kháng thể chống Toxocara cũng không nói lên tình trạng đang mắc hay đã mắc bệnh vì các kháng thể chống Toxocara có thể tồn tại đến hơn 2,8 năm với kỹ thuật ELISA và đến hơn 5 năm với kỹ thuật Western-Blot.
Ở người sau khi nuốt phải trứng sán chó, mèo đã hóa phôi, các ấu trùng sẽ đóng kén tại những nơi mà chúng đến, làm nên bệnh giun đũa chó, mèo ở người. Trứng sán không thể nở ra con trưởng thành (không đi hết chu trình như ớ ký chủ chó, mèo). Mà những thuốc diệt sán chỉ diệt được sán trưởng thành, không diệt được phôi hay kén.
Khi kén đóng ở những nơi nguy hiểm, tạo nên các u (giả u) như ở não, ở phổi chèn ép, gây tổn hại cho người thì cần điều trị những u đó (thường là bằng phẫu thuật)
Bệnh giun đũa thường sẽ tự khỏi, vì Toxocarararvae không thể trưởng thành trong vật chủ của con người.
Corticosteroid được kê đơn trong trường hợp nhiễm ấu trùng ở mắt nặng (VLM) hoặc nếu bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm độc nội tạng (OLM). Có thể chỉ định sử dụng albendazole (ưu tiên) hoặc mebendazole (liệu pháp dòng thứ hai,).
Nhiễm độc nội tạng ở người có thể được điều trị bằng thuốc chống ký sinh trùng như albendazole hoặc mebendazole, tiabendazoleor diethylcarbamazine thường kết hợp với thuốc chống viêm. Steroid đã được sử dụng với một số kết quả tích cực. Liệu pháp chống giun sán được dành riêng cho các bệnh nhiễm trùng nặng (phổi, não) vì liệu pháp này có thể gây ra, do tiêu diệt ấu trùng lớn, phản ứng viêm mạnh. Điều trị bệnh giun đũa mắt khó khăn hơn và thường bao gồm các biện pháp để ngăn ngừa tổn thương tiến triển cho mắt.
Ivermectin 9mg uống một lần (45-65 kg). Thuốc uống đơn giản nhưng có nhiều tác dụng phụ.
5. Phòng bệnh
Hàng tuần dọn dẹp sạch sẽ nơi chó, mèo nằm.
Phân chó, mèo phải được chôn lấp hay bỏ vào túi và vứt bỏ vào thùng rác.
Không cho trẻ chơi đùa nơi có chó, mèo thải phân.
Rửa tay với xà phòng sau khi chơi đùa với chó, mèo, sau khi nghịch đất cát và trước khi ăn uống. Ăn chín, uống sôi.