? Tư vấn sức khỏe - Hội hành nghề Y tế tư nhân
Buu Dien DakLak Buu Dien DakLak
THÔNG BÁO


HyperLink


Y TẾ TƯ NHÂN TPHCM
Tổng Hội Y Học
Tổng Hội Y Học
Tổng Hội Y Học
Tổng Hội Y Học
Y Tế Cộng Đồng
Tin tức & Sự kiện
11/25/2019 7:40:51 AM
Đánh giá hiệu quả phương pháp phá hủy khối u gan tại chỗ bằng vi sóng trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan tại bệnh viện đa khoa tỉnh Khánh Hòa

 Tóm tắt: Từ 8/2016 - 5/2019, Bệnh viện đa khoa tỉnh Khánh Hòa (BVKH) đã điều trị cho 33 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG) với phương pháp pha hủy khối u gan tại chỗ bằng vi sóng (MWA). Tổng số khối u = 44/33 bệnh nhân. Tổng số lần thực hiện MWA = 42.

Kết quả: Khối u phá hủy hoàn toàn: Sau 1 lần MWA=90,9%; Sau 2 lần MWA=95,4%. Tái phát: Tại chỗ=9%; Tại gan=3%. Huyết khối, di căn xa, tử vong=0. Biến chứng: Bỏng thành ngực (vị trí đặt ăng-ten) =7,1%.Trong khi thực hiện MWA: 45,45% đau vừa; 54,55% đau nhiều. Sau MWA 24 giờ: 69,7% đau ít; 30,3% đau vừa. Thời gian theo dõi sau MWA trung bình: 16,52±6,55 tháng (3-28 tháng). 24/33 bệnh nhân được theo dõi  12 tháng có 19/24 BN sống không bệnh 1 năm (79,2%), 24/24 BN sống toàn bộ 1 năm (100%).Tính hiệu quả và an toàn của phương pháp phá hủy khối u gan tại chỗ bằng vi sóng của chúng tôi tương đương với nhiều tác giả khác có nghiên cứu tương tự.


 Đánh giá hiệu quả phương pháp phá hủy khối u gan tại chỗ bằng vi sóng trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan tại bệnh viện đa khoa tỉnh Khánh Hòa

                                                                                         Cao Việt Dũng - Lê Việt Cường

                                                                                             Bệnh viện đa khoa tỉnh KH

 

Tóm tắt: Từ 8/2016 - 5/2019, Bệnh viện đa khoa tỉnh Khánh Hòa (BVKH) đã điều trị cho 33 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG) với phương pháp pha hủy khối u gan tại chỗ bằng vi sóng (MWA). Tổng số khối u = 44/33 bệnh nhân. Tổng số lần thực hiện MWA = 42.

Kết quả: Khối u phá hủy hoàn toàn: Sau 1 lần MWA=90,9%; Sau 2 lần MWA=95,4%. Tái phát: Tại chỗ=9%; Tại gan=3%. Huyết khối, di căn xa, tử vong=0. Biến chứng: Bỏng thành ngực (vị trí đặt ăng-ten) =7,1%.Trong khi thực hiện MWA: 45,45% đau vừa; 54,55% đau nhiều. Sau MWA 24 giờ: 69,7% đau ít; 30,3% đau vừa. Thời gian theo dõi sau MWA trung bình: 16,52±6,55 tháng (3-28 tháng). 24/33 bệnh nhân được theo dõi  12 tháng có 19/24 BN sống không bệnh 1 năm (79,2%), 24/24 BN sống toàn bộ 1 năm (100%).Tính hiệu quả và an toàn của phương pháp phá hủy khối u gan tại chỗ bằng vi sóng của chúng tôi tương đương với nhiều tác giả khác có nghiên cứu tương tự.

 

Evaluate the effectiveness of microwave ablation in the treatment of hepatocellular carcinoma at Khanh Hoa Provincial General Hospital.

 

Summary: From August 2016 to May 2019, there were 33 patients with hepatocellular carcinoma (HCC) were treated by microwave ablation (MWA) at Khanh Hoa Provincial General Hospital. Total tumors = 44/33 patients. Total times of MWA = 42.

Result: Complete ablation: After 1 time MWA = 90.9%; After 2 times MWA = 95.4%. Recurrence: Local tumor progression = 9%; At liver = 3%. Thrombosis, distant metastasis, death = 0. Complications: Chest wall burns (antenna placement) = 7.1%. During MWA:45.45% moderate pain; 54.55% severe  pain. After MWA 24 hours: 69.7%  minor pain; 30.3% moderate pain. Duration of follow-up after average MWA: 16.52 ± 6.55 months (3-28 months). 24/33 patients were followed ≥12 months with 19/24 (79.2%) patients had disease-free survival for 1 year, 24/24 (100%) patients had cumulative survival for 1 year. Our results is equivalent to many other authors with similar studies.

 

1.Đặt vấn đề

         UTBMTBG là bệnh ác tính khá phổ biến và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong các bệnh ung thư ở nước ta hiện nay [8]. Đã có những tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý này, bệnh được phát hiện ở giai đoạn sớm, phù hợp với phương pháp điều trị mới, ít xâm hại như MWA.

       BVKH ứng dụng phương pháp điều trị này từ 8/2016 nhằm nâng cao chất lượng điều trị cho bệnh nhân, giúp cho người dân địa phương không phải đi xa để điều trị dẫn đến tốn kém về kinh tế, khó khăn trong đi lại, góp phần làm giảm quá tải cho các bệnh viện tuyến trên. Đề tài này nhằm đánh giá tính hiệu quả và tính an toàn của phương pháp phá hủy khối u gan tại chỗ bằng vi sóng trong điều trị UTBMTBG tại BVKH.

 Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá tính hiệu quả và an toàn của phương pháp phá hủy khối u gan tại chỗ có kích thước ≤ 5cm bằng vi sóng trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Khánh Hòa.

2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

2.1 Đối tượng nghiên cứu

Các bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn chọn bệnh và loại trừ.

2.1.1 Tiêu chuẩn chọn bệnh

-Bệnh nhân được chẩn đoán xác định UTBMTBG theo sơ đồ hướng dẫn chẩn đoán bệnh lý này của Bộ Y Tế [1].

- 1 khối u có đường kính ≤ 5 cm hoặc 2-3 khối u, mỗi u có đường kính ≤ 3 cm.

- Child Pugh A hay B.

- Khối u không thể phẫu thuật hoặc bệnh nhân từ chối phẫu thuật.

- Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu.

2.1.2 Tiêu chuẩn loại trừ

-Xâm nhập mạch máu: tĩnh mạch cửa, tĩnh mạch gan, tĩnh mạch chủ dưới.

-Xâm lấn đường mật chính trong gan.

-Di căn ngoài gan (phổi, xương, mạc nối, mạc treo,…).

-Xâm lấn các cơ quan cạnh gan (thành ngực, cơ hoành, thành bụng, dạ dày, đại tràng,…).

- Có máy tạo nhịp, kẹp phình mạch não, có cấy ghép các loại thiết bị điện tử hoặc các vật liệu bằng kim loại khác.

- Rối loạn đông máu nặng (Tiểu cầu <50.000/ml, PT kéo dài hơn 50%  so với chứng).

- Đang có bệnh nhiễm trùng.

- Có bệnh mãn tính phối hợp nặng.

- Thể trạng PS >2 .

2.2 Phương pháp nghiên cứu

2.2.1 Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu tiến cứu, theo dõi dọc, can thiệp lâm sàng, không nhóm chứng.

2.2.2  Cỡ mẫu: ≥30 trường hợp.

2.2.3 Phương pháp chọn mẫu

Tất cả bệnh nhân được thực hiện MWA để điều trị UTBMTBG tại BVKH trong thời gian nghiên cứu.

2.2.4 Thời gian nghiên cứu: Từ  8/2016 - 5/2019.

2.2.5 Địa điểm nghiên cứu: BVKH.

2.2.6 Định nghĩa các biến số [4],[5].

- Phá hủy u hoàn toàn: không có vùng tăng quang thì động mạch trên film CT có cản quang và không có vùng bắt từ trên T1 ở film MRI có cản từ sau 1 tháng thực hiện MWA.

- Phá hủy u không hoàn toàn: có vùng tăng quang thì động mạch trên film CT có cản quang và có vùng bắt từ trên T1 ở film MRI có cản từ sau 1 tháng thực hiện MWA.

- Tái phát tại chỗ: Xuất hiện khối u trong hay ngay cạnh vùng phá hủy, sau khi u đã phá hủy hoàn toàn.

-Tái phát tại gan: Xuất hiện khối u mới tại gan ngoài vùng đốt, sau khi u đã phá hủy hoàn toàn.

- Tái phát ngoài gan: Xuất hiện huyết khối tĩnh mạch, di căn ngoài gan sau phá hủy hoàn toàn.

- Thời gian sống không bệnh: Thời gian sống của bệnh nhân sau khi u được phá hủy hoàn toàn, không hoặc chưa tái phát.

-Thời gian sống toàn bộ: Thời gian sống của bệnh nhân, bao gồm cả thời gian sống không u và có u tái phát.

- Đánh giá mức độ đau: Theo thang điểm VAS (Visual Analog Scale) [12], tại thời điểm MWA và 24h sau MWA. Điểm được tính từ 0 đến 10 (không đau đến đau nhiều). 0 điểm=không đau; 1-3 điểm = đau ít; 4-6 điểm = đau vừa; 7-10 điểm = đau nhiều.

 3. Kỹ thuật

Thủ thuật MWA được làm tại phòng mổ hay phòng thủ thuật.

3.1 Chuẩn bị bệnh nhân trước khi làm MWA:

Giải thích tiến trình thủ thuật, các tai biến có thể xảy ra và bệnh nhân ký cam kết làm thủ thuật.

Đo: mạch, huyết áp, nhịp thở.Thiết lập đường truyền tĩnh mạch.

3.2 Định vị khối u: Định vị khối u  bằng SÂ, xác định hướng tiếp cận khối u sao cho an toàn và dễ dàng nhất.

3.3 Phác thảo sơ đồ phá hủy khối u: Dựa vào vị trí khối u so với mạch máu lớn, màng phổi, ống tiêu hóa, túi mật và  kích thước khối u.

3.4 Tư thế của bệnh nhân: Đa số bệnh nhân được thực hiện ở tư thế nằm ngữa. Một số khối u hạ phân thùy VI, VII có thể chêm hông phải để tạo tư thế nghiêng nhẹ sang trái.

3.5 Vô trùng: Kỹ thuật đảm bảo vô trùng, da được sát trùng diện rộng với cồn iode, trải khăn vô trùng vùng bụng và để hở vùng sẽ đưa ăng-ten qua da

 

 
.

3.6 Vô cảm:

Giảm đau: Fentanyl 100mcg 1 ống  pha với 10 ml nước cất, tiêm tĩnh mạch chậm. Lặp lại nếu bệnh nhân còn đau.

Gây tê tại chỗ: Bằng lidocain 2% 2-4 ml tại vị trí đưa ăng-ten qua da.

3.7 Tiến hành phá hủy khối u:

-     Chọn ăng-ten thích hợp.

-     Rạch da.

-     Đưa điện cực vào mép xa của khối u và phá hủy phần xa trước, phần gần sau. Phá hủy khối u từng phần cho đến khi phá hủy toàn bộ khối u.

-     Đốt 3 phút với ăng-ten 1 cm, 5 phút với ăng-ten 2 cm và 10 phút với ăng-ten 4 cm.

-     Đo nhiệt độ tại vùng vừa phá hủy.

Các tình huống ngưng thủ thuật:

-     Bệnh nhân quá đau, không kiểm soát được bằng Fentanyl.

-     Biến chứng nặng xảy ra.

4 Kết quả & bàn luận

4.1 Đặc điểm chung

Tổng số bệnh nhân của lô nghiên cứu:  33.

Nam 69,7%, nữ 30,3%, tỉ lệ nam/nữ=2,3.

Tuổi: <40=6,1%; 40-59=27,3%; ≥60=66,7%. Tuổi trung bình (TB)=60±9

Yếu tố nguy cơ: HBV(+)=51,5%; HCV(+)=27,3%; Rượu=12,1%.

Việt nam nằm trong vùng dịch tể cao của HBV, nên yếu tố nguy cơ của nghiên cứu chúng tôi có nhiễm HBV cao (51,5%) là phù hợp. Võ Hội Trung Trực [4] có tỉ lệ nhiễm HBV và HCV lần lượt là 51,8% và 30,4% tương tự chúng tôi.

4.2 Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng

Triệu chứng lâm sàng: 42,4%=không có triệu chứng; Đau tức nhẹ vùng gan =39,4%; Vàng da =3%; Báng bụng =3%; Chán ăn, sụt cân= 12,1%.

Cận lâm sàng: Hàm lượng AFP: ≤10ng/ml= 15,2%; >10-<400ng/ml=57,6%; ≥400ng/ml=27,3%.

Chỉ số trung bình của PT=12,29±1,59 giây; INR=1,2±0,2; Bilirubin=3±2mg%; Albumin=39,8±5,7g/L; ALT(U/L)=59,7±75,6; AST(U/L)=69,6±98,8; Fibrinogen (g/L)= 3,1±0,9; Child-Pugh A=84,8%; Child-Pugh B=15,2%; Phân giai đoạn theo BCLC: A=90,9%;  B=9,1%. GPB (N=12): ESI=16,6%; ESII=8,3%; ESIII=8,3%; Không xác định=66,7%

Trong giai đoạn sớm, UTBMTBG thường không có triệu chứng nên chẩn đoán thường rất khó khăn [3]. Lô nghiên cứu này chỉ có gần 30% trường hợp có AFP ≥ 400ng/ml, được xem là ngưỡng có giá trị  đặc hiệu trong chẩn đoán UTBMTBG [3]. Kết quả định lượng AFP của lô nghiên cứu này giúp chúng ta cảnh giác hơn với những khối u gan nhỏ có  hàm lượng AFP bình thường hay tăng nhẹ. Hiện nay, chẩn đoán UTBMTBG chủ yếu dựa vào tiêu chuẩn chẩn đoán hình ảnh [1], [5], [7].

Lô nghiên cứu của chúng tôi có gần 90% bệnh nhân có Child Pugh A và trên 90% bệnh nhân ở giai đoạn sớm theo phân loại của Bacelona Clinic Liver Cancer (BCLC).           

Theo hướng dẫn của phác đồ điều trị UTBMTBG của bộ Y tế Việt Nam [1] và các hướng dẫn điều trị từ các tổ chức quốc tế chuyên về ung thư gan thì bệnh nhân UTBMTBG được chỉ định MWA đa số ở giai đoạn rất sớm và  sớm [1],[11] vì thế kết quả nghiên cứu về giai đoạn bệnh của chúng tôi là phù hợp.

4.3 Đặc điểm khối u

Số lượng khối u: TS=44. 1u=75,8%; 2u=15,1%; 3 u=9,1%.

Phân bố u (N=44): Gan P=72,7%; Gan T=15,2%; Gan P+T=12,1%

Vị trí u (N=44): Gần bề mặt trên gan=9,1%; Gần MM lớn=4,54%; Gần TM=2,27%; Gần TM và bề mặt gan=2,27%.

Kích thước u (N=44): ≤2cm=22,72%; 2,1-3cm=36,36%; 3,1-5cm=40,9%; TB=3,4±1cm (1,5-5).

Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 44 khối u  trên 33 bệnh nhân. Đa số bệnh nhân có 1 khối u (75,8%), chủ yếu  phân bố ở gan phải (72,7%), kích thước đa số từ 2,1-5cm (77,26%). Đặc điểm này lý tưởng để chỉ định các phương pháp can thiệp tối thiểu như MWA trong điều trị UTBMTBG. Nhiều tác giả cũng có đặc điểm u gan tương tự chúng tôi [2], [4].

4.4 Triệu chứng lâm sàng (TCLS) trong MWA (N=42)

Đau vùng gan: Vừa =45,45%, Nhiều=54,55%, VAS tb=6,82±1,33.

Mệt=23,8%; Đau vai P=11,9%; Buồn nôn-nôn=11,9%.

Đau là triệu chứng thường gặp trong quá trình đốt u, trong đó đau vùng gan chiếm 100%,mức độ từ vừa đến nhiều.Theo kinh nghiệm của chúng tôi, đau thường gặp khi sử dụng ăng-ten lớn, mức năng lượng cao, mức nhiệt độ cao. Ngoài ra, đau thường gặp khi đốt khối u sát bề mặt trên gan. Các tác giả có nghiên cứu tương tự đều ghi nhận TCLS trong MWA như chúng tôi [2],[4],[13].

4.5 Triệu chứng lâm sàng 24h sau MWA (N=42)

Sốt=47,6%; Mệt mõi=59,5%; Đau vùng gan hay đau vai P ít = 69,70%, vừa=30,30%;Buồn nôn-nôn=9,5%.

Diễn biến lâm sàng sau đốt có thể thay đổi từ nhẹ đến nặng tùy thuộc vào kích thước khối u, vị trí khối u và biến chứng. Ở bệnh nhân không có biến chứng, triệu chứng thường gặp bao gồm đau vùng gan , sốt nhẹ, mệt mỏi do hiện tượng hoại tử đông khởi phát hiện tượng viêm.  MWA thường gây sốt nhẹ, kéo dài không quá 7 ngày do thể tích phá hủy tương đối nhỏ.Trong nghiên cứu của chúng tôi, các triệu chứng thường gặp sau MWA lần lượt là đau vùng gan mức độ từ ít, đến vừa (đau ít 69,70%, vừa 30,30). Mệt  (23,8%). Đau vai P (11,9%). Buồn nôn-nôn (11,9%). Các tác giả khác cũng có triệu chứng tương tự [2], [4],[14].

4.6 Men gan và chức năng gan trước và sau MWA 1 tháng

ALT trước MWA= 58,18±71,6; 1 tháng sau MWA = 59,67±75,5.

AST trước MWA =68,06±97,3; 1 tháng sau MWA = 69,64±98,7.

Child-Pugh (điểm) trước MWA=6,18 ±1,10; 1 tháng sau MWA=6,3±1,23.

Phá hủy khối u gan kèm vùng an toàn 5-10mm quanh khối u thường không ảnh thưởng đến chức năng gan do thể tích nhu mô gan lành bị phá hủy không lớn. Tình trạng của gan ban đầu cũng khá quan trọng trong việc phục hồi sau MWA.  Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa số  bệnh nhân có khối u có kích thước từ 2 -5cm và  Child Pugh A nên  chức năng gan không thay đổi sau điều trị, điểm Child-Pugh trước MWA và sau MWA 1 tháng không thay đổi có ý nghĩa (P>0,05).

4.7  Biến chứng

Bỏng thành ngực (nơi đưa Ăng-ten qua da)=3/42 (7,1%).

Biến chứng của chúng tôi là bỏng thành ngực quanh Ăng-ten 3 trường hợp (7,1%), biến chứng này thường gặp khi các khối u nằm gần bề mặt gan. Biện pháp khắc phục là sử dụng power mode  với mức năng lượng thấp và phủ bông tẩm cồn quanh chân điện cực. Các biến chứng khác như tràn dịch màng phổi P, thường xảy ra khi MWA các  khối u sát vòm hoành, ở vị trí này các khối u có thể bị che khuất 1phần theo nhịp thở. Biến chứng dễ xảy ra nếu không quan sát cẩn thận khi đưa điện cực đến bờ xa khối u, chúng tôi không gặp trong lô nghiên cứu này.

Theo định nghĩa biến chứng được xem là nặng khi biến chứng có triệu chứng nặng và cần phải can thiệp để xử trí, như tràn máu màng phổi, chảy máu ổ bụng, thủng ruột... Các biến chứng nặng chúng tôi không gặp trong lô nghiên cứu này. Võ Hội Trung Trực [4] có biến chứng nhẹ 8/66 (12%), biến chứng nặng 2/66(3%).

4.8 Phá hủy hoàn toàn khối u sau MWA (N=44)

Phá hủy hoàn toàn sau 1 lần MWA =90,9%, sau 2 lần MWA=95,4%.

Tỷ lệ phá hủy hoàn toàn khối u của chúng tôi tương đương với kết quả của  Zhang [14]. Tỉ  lệ phá hủy u hoàn toàn bằng MWA của Yun Xu [9] là 94.6% , trong đó tỉ lệ phá hủy hoàn toàn khối u có kích thước ≥ 4cm là 93,8% . Ming-De Lu [9] cũng cho thấy tỷ lệ phá hủy hoàn toàn 94,9%. Trần Quốc Hùng và Cs [2] có tỉ lệ phá hủy u hoàn toàn sau MWA lần 1 là 70% và sau MWA lần 2 là 86%. Võ Hội Trung Trực [4] có tỉ lệ phá hủy khối u hoàn toàn 92,4% (61/66).

Ngoài tính năng của máy đốt, tỷ lệ phá hủy hoàn toàn khối u phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng của kỹ thuật viên, vị trí và kích thước của khối u. 

 4.9  Phá hủy không hoàn toàn (N=44)

Sau 1 lần MWA= 4/44 (9,09%), xử trí: MWA lần 2.

Sau 2 lần MWA=2/44(4,5%), xử trí: 1 MWA lần 3, 1 TACE.

Các trường hợp phá hủy không hoàn toàn sau 2 hay 3 lần MWA, thường sẽ được chỉ định phương pháp điều trị khác. R. Santambrogio [10] có tỉ lệ phá hủy u không hoàn toàn của nhóm có u từ 4cm là 11%.

4.10 Biến đổi hàm lượng AFP sau MWA 1 tháng

Hàm lượng AFP trước MWA=369,9±590 ng/ml; sau MWA 1 tháng=28,5± 71 ng/ml (p=0,001)

Lô nghiên cứu của chúng tôi có 15,2 % bệnh nhân có AFP bình thường (≤10ng/ml) trước điều trị, AFP không thay đổi sau MWA ở nhóm này.

Ở các bệnh nhân có hàm lượng AFP tăng trước điều trị, AFP giảm mạnh, nhất là giảm gần ngưỡng bình thường là dấu hiệu khẳng định hiệu quả phá hủy u hoàn toàn.

Ở các trường hợp AFP vẫn cao sau MWA là dấu hiệu xác định khối u  vẫn còn tiến triển hoặc có thể có tổn thương mới ở nơi khác.

Trường hợp CT xác định khối u đã được phá hủy hoàn toàn nhưng AFP vẫn tăng cao, MRI hay thậm chí PET-CT phải được chỉ định để xác định khối u đã được phá hủy hoàn toàn hay chưa.

Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận hàm lượng AFP trung bình giảm sau khi thực hiện MWA 1 tháng  từ 369,9 ±590 xuống 28,5±71 ng/ml. Sự giảm này có ý nghĩa thống kê (p = 0,001).

Trần Quốc Hùng và Cs [2] cũng ghi nhận có hàm lượng AFP giảm rõ rệt sau MWA.

4.11 Tái phát tại chỗ (N=44)

4/44 = 9%. Thời gian tái phát: 9 ± 5 tháng.  Xử trí: 3 MWA, 1 phẫu thuật.

Về mặt thực nghiệm trên chuột, Bhardwaj [6] nhận thấy trên vi thể, sang thương sau MWA không thấy tế bào sống trong sang thương và quanh mạch máu, tất cả mạch máu và đường mật đều hoại tử hoàn toàn. Như vậy, về mặt l‎ý thuyết tỷ lệ tái phát tại chổ là cực thấp. Tái phát tại chổ thường do lỗi kỹ thuật, khối u không được phá hủy  hoàn toàn. Vùng ung thư chưa phá hủy đôi khi rất nhỏ, thiếu cấu trúc mạch máu hoàn chỉnh nên khó phát hiện trên CT hay MRI và sẽ phát triển trở lại sau 1 thời gian.

Yun Xu [13] ghi nhận tỷ lệ tái phát tại chổ của UTBMTBG sau MWA là 7,1% trong 3 năm. Ming-De Lu [9] cho rằng tỷ lệ này là 11.8%  trong  4 năm và không có sự khác biệt giữa khối u có kích thước <3cm hay >3cm.

4.12 Tái phát tại gan (N=33)

1/33 = 3%. Thời gian tái phát 15 tháng. Xử trí = TACE.

Nếu loại trừ được khối u mới không do di căn theo điện cực thì sự xuất hiện u mới trong gan không liên quan đến MWA mà liên quan đến quá trình diễn tiến tự nhiên của bệnh. 

Võ Hôi Trung Trực [4] có tỉ lệ xuất hiện u mới tại gan 14,8%(8/66).

4.13 Huyết khối, di căn xa và tử vong

Trong thời gian theo dõi trung bình 16,52±6,55 tháng (3-28 tháng), chúng tôi chưa ghi nhận được trường hợp nào có huyết khối tĩnh mạch, di căn xa và tử vong của lô nghiên cứu này. Võ Hội Trung Trực [4] không gặp huyết khối tĩnh mạch, không có tử vong, có 1/66 (0,15%) di căn phổi.

4.14 Thời gian sống

Chúng tôi có thời gian theo dõi trung bình 16,52±6,55 tháng (3-28 tháng). Nhóm theo dõi ≥12 tháng có 24BN, thời gian sống không bệnh 1 năm của nhóm này 79,2% (19/24), thời gian sống không bệnh 1 năm của nhóm này là 100% (24/24).

Ming de Lu [9]với lô nghiên cứu 50 bệnh nhân, thời gian theo dõi 3 năm, có thời gian sống không bệnh 1 năm và 2 năm lần lượt là 55% và 41%. Thời gian sống toàn bộ 1 năm, 2 năm, 3 năm của tác giả này tương ứng là 96%, 83% và 73%.

5. Kết luận

Trong thời gian từ 8/2016 đến 5/2019 BVKH đã ứng dụng phương pháp phá hủy khối u gan tại chỗ bằng vi sóng để điều trị cho 33 bệnh nhân UTBMTBG có kích thước ≤5cm với kết quả như sau: 90,91% u phá hủy hoàn toàn sau 1 lần MWA, 95,45% u phá hủy hoàn toàn sau 2 lần MWA .Tỷ lệ tái phát tại chỗ là 9,09%. Thời gian tái phát trung bình là 9 ± 5 tháng. Chưa gặp huyết khối tĩnh mạch cửa, di căn xa, tử vong .Thời gian theo dõi sau MWA trung bình: 16,52±6,55 tháng (3-28 tháng). Nhóm theo dõi ≥12 tháng có 24BN, thời gian sống không bệnh 1 năm của nhóm này 79,2% (19/24), thời gian sống không bệnh 1 năm của nhóm này là 100% (24/24). Biến chứng: Có 3 trường hợp bị bỏng thành bụng (b/c nhẹ) (7,1%).Trong khi thực hiện MWA: 45,45% đau vừa; 54,55% đau nhiều. Sau MWA 24 giờ: 69,7% đau ít; 30,3% đau vừa.

Tính hiệu quả và an toàn của phương pháp phá hủy khối u gan tại chỗ bằng vi sóng của chúng tôi tương đương với nhiều tác giả khác có nghiên cứu tương tự.

Tài liệu tham khảo

Tiếng Việt

1.       Bộ Y tế Việt Nam, ‘‘Phác đồ xác định chẩn đoán và hướng dẫn điều trị ung thư biểu mô tế bào gan”, Quyết định 5250/QĐ-BYT. 28-12-2012.

2.       Trần Quốc Hùng, Ng Thi Minh Phương, Quách Thanh Dung, “ Đánh giá bước đầu hiệu quả của phương pháp phá hủy ung thư biểu mô tế bào gan bằng vi sóng tại bệnh viện 19.8”, Tạp chí ung thư học VN. 2015, pp. 254-259.

3.       Trần Công Duy Long, ‘‘Cập nhật các phương pháp chẩn đoán và điều trị ung thư tế bào gan’’, Luận án tiến sĩ y học. 2015, Đại học Y Dược TP HCM.

4.       Võ Hội Trung Trực, ‘‘Đánh giá hiệu quả điều trị của phương pháp đốt vi sóng trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan’’, Tạp chí y dược học quân sự. 2014, số phụ trương, pp 92-94.

Tiếng Anh

5.       Alba Castán, Ylenia Navarro, Luis Sarría, Raque Larrosa, Mario Serradilla, Alejandro Serrablo., “Radiological diagnosis of hepatocellular carcinoma in non-cirrhotic patients”.Hepatoma Res 2017;3:1-17.

6.       Bhardwaj N, Strickland  A D, Ahmad  F, Atanesyan  L,  West  K, Lloyd D M, ‘‘A comparative histological evaluation of the ablations produced by microwave, cryotherapy and radiofrequency in the liver’’, Pathology. 2009, 41(2): 168–172.

7.       Dou JPLiang PYu J, “Microwave ablation for liver tumors”, Abdom Radiol (NY). 2016 Apr;41(4):650-8.

8.       Freddie Bray; Jacques Ferlay; Isabelle Soerjom;Rebecca L. Siegel; Lindsey A. Torre; Ahmedin Jemal, ‘‘Global Cancer Statistics 2018: GLOBOCAN Estimates of Incidence and Mortality Worldwide for 36 Cancers in 185 Countries’’, CA CANCER J CLIN. 2018;0:1–31

9.       Ming-de LuJun-wei ChenXiao-yan XieLi LiuXiong-qing HuangLi-jian LiangJie-fu Huang, ‘‘Hepatocellular Carcinoma: US-guided Percutaneous Microwave Coagulation Therapy’’, Vascular and Interventional Radiology. 2001, VOL.221. NO.1

10.    R. Santambrogio, J. Chiang, M. Barabino, F. Meloni, E. Bertolini, F. Melchiorre, and E. Opocher, ‘‘Comparison of  laparoscopic  microwave to radiofrequency ablation of small hepatocellular carcinoma (≤3 cm)’’, Ann Surg Oncol. 2017 January ; 24(1): 257–263.

11.    Somasundaram Subramaniam, Robin K. Kelley, Alan P. Venook, ‘‘ A review of  hepatocellular carcinoma (HCC) staging systems’’, Chinese Clinical Oncology.  2013;2(4):33.

12.    Wewers M.E. & Lowe N.K., ‘‘A critical review of visual analogue scales in   the measurement of clinical phenomena’’, Research in Nursing and Health. 1990, 13, 227-236.

13.    Yun Xu, Qiang Shen, Neng Wang, PanPan Wu, Bin Huang, Ming Kuang and GuoJun Qian, ‘‘Microwave  ablation is as effective as radiofrequency ablation for veryearlystage hepatocellular carcinoma’’, Chin J Cancer. 2017, 36:14.

14.    Zhang M, Ma H, Zhang J, He L, Ye XLi X. Comparison of microwave ablation and hepatic resection for hepatocellular carcinoma: a meta-analysis. 3 October 2017 Volume 2017:10 Pages 4829—4839.

 

 

 

 

 

 

 






COPYRIGHT@T? V?N S?C KH?E - H?I HàNH NGH? Y T? T? NH?N - KHáNH HòA 

rolex replica watches rolex cellini replica watches rolex day date replica rolex submariner replica omega replica watches panerai replica watches replica watches